Truyện ngắn: Sống thật
Sống thật
Giọng em thật trầm, thật nhẹ và buồn, lẫn trong tiếng gió của buổi chiều dần tắt nắng. Em không nhìn tôi mà ánh mắt lại hướng về xa xăm. Nghiêng nghiêng dưới những vệt tà dương còn sót lại, gương mặt em lộ rõ sự cô độc và cả những dằn vặt dồn nén.
Em buông tiếng thở dài…
Tôi đã cố không quay đầu nhìn em, không phải vì tôi không ngạc nhiên với cái tin giật gân đó, nhưng là vì tôi đã kịp giữ mình lại để em không cảm thấy tổn thương hơn.
Im lặng…
Chúng tôi cùng tiếp tục đi bên nhau trên con đường nhỏ, ngoằn ngoèo và dài hun hút, dẫn đến ngôi làng. Chợt em hỏi tôi:
- Chị, có phải định mệnh là thứ vẫn xảy ra dẫu trăm ngàn lần mình không muốn? Em đã rất sợ khi phải đối diện với điều này, và giờ đây em càng sợ hơn khi nói cho chị biết em như thế...
Tôi ngừng lại, nhìn vào mắt em, đôi mắt long lanh sâu thẳm, rồi khẽ cúi xuống nắm lấy tay em.
- Dù có thế nào đi chăng nữa, em vẫn mãi là em gái nhỏ của chị.
Nhìn gương mặt em giãn ra nhẹ nhõm hơn, lòng tôi chợt quặn thắt. Có lẽ, em đã đau khổ rất nhiều…
* * *
Đến khi ra trường, chúng tôi mỗi người một công việc và sống xa nhau. Dù vậy, tôi và em vẫn giữ mối quan hệ thân thiết như xưa. Thế rồi, ba mẹ em muốn em lập gia đình. Hai mươi lăm tuổi có lẽ là một tuổi hợp lí để người con gái chọn cho mình một bến đỗ. Vậy mà em cứ khất lần, hẹn mãi. Có khá nhiều người theo đuổi em nhưng cũng chỉ vài tháng rồi lại thôi. Khi tôi thắc mắc, em chỉ trả lời gọn lỏn: “Em không hợp”. Lúc đó tôi vẫn nghĩ em đơn thuần là chưa sẵn sàng để khoanh nhỏ vùng trời của mình lại với vai trò làm vợ và làm mẹ. Ít lâu sau, em viện lí do công việc để xin ra ở riêng, mặc cho ba mẹ em khuyên nhủ hết lời.
Thế rồi, em gọi cho tôi vào một đêm rất khuya cuối tháng Mười Một. Đêm đó cuộc trò chuyện của chúng tôi phần lớn là diễn ra trong im lặng. Tôi nghe hơi thở em qua điện thoại, giọng nói khàn đục, dường như em đang khóc. Và em cũng đã nói với tôi những lời ấy:
- Chị ơi! Có phải định mệnh là thứ vẫn xảy ra dẫu trăm ngàn lần mình không muốn?
Tôi đã không hỏi em đang xảy ra chuyện gì. Nhiều năm quen nhau đủ cho tôi hiểu em sẽ tự nói ra khi cảm thấy thích hợp. Cuối cùng, em nói muốn gặp tôi vào giữa tháng sau. Chúng tôi thống nhất ngày gặp, rồi tôi đề nghị cùng em đọc một kinh Kính mừng trước khi cúp máy.
- Đức Mẹ ở cùng em!- Tôi nói.
- Chị nhớ cầu nguyện cho em nhé!- Giọng em yếu ớt.
- Ừm... Em ngủ đi, trễ rồi!
Chúng tôi gác máy và biết chắc rằng cả hai sẽ cùng thức trắng đêm nay.
Tôi gặp lại em vào giữa tháng Mười Hai tại ngôi làng nhỏ giữa vùng rừng núi bao la như đã hẹn. Em vẫn luôn thích sự hoang sơ của núi rừng, vì em nói khi lặng đi để nghe hơi thở của đất trời, em cũng nghe được tiếng Chúa và tiếng của trái tim mình. Lúc cùng sải bước trên con đường về nhà trọ cũng là lúc em cho tôi biết nguyên nhân của câu chuyện. Thì ra, sau bao trốn tránh, dằn vặt, khổ đau, cuối cùng em cũng đành phải đối diện với sự thật: Bản thân mình là người đồng tính.
Tôi và em từng cùng nhau đi đến nhiều nơi, nhưng đây là lần đầu tiên mà chuyến đi của chúng tôi lại đầy sự im lặng đến như vậy. Chiều hôm đó, chúng tôi dự lễ ở nhà thờ trong làng. Khẽ nhìn em lặng lẽ cúi đầu trước Chúa, tôi thầm nguyện xin Đấng Toàn Năng hãy chữa lành trái tim đầy thương tổn của em. Thế nhưng, em lại không lên rước lễ…
Đêm đó trời mưa thật to. Khi tôi trở mình quay sang chiếc giường đơn đối diện thì em đã biến mất rồi. Tôi phóng xuống giường trong một tích tắc, vội vàng đi tìm em. Em nói với tôi rằng lần này ba mẹ em nhất quyết muốn em lập gia đình. Họ cho rằng em đã hai mươi tám tuổi rồi, và không có lí do gì để trì hoãn nữa. Em mệt mỏi vì phải chạy trốn gia đình, và càng mệt mỏi hơn khi bắt gặp hình dáng thật của bản thân mà lâu nay em vẫn cố lẩn tránh.
Trong màn mưa dày đặc, tiếng gió rả rích lạnh thấu xương, dáng hình nhỏ bé của em vẫn đang quỳ trước tượng Đức Mẹ trong sân nhà thờ. Tôi quỳ xuống bên em, mưa tầm tả quật vào cả hai. Em ôm tôi rồi nức nở:
- Chị ơi! Em là người có tội… Em phải làm sao đây?
Tôi ghì thân hình bé nhỏ tội nghiệp trong tay mình rồi nghẹn ngào:
- Em gái nhỏ của chị, đồng tính không phải là một tội. Chúa không bỏ rơi em, Giáo hội không loại trừ em. Dù thế nào đi chăng nữa, Chúa và Đức Mẹ vẫn yêu em vì em là con của các Ngài. Em phải sống với niềm tin chứ!
Em khóc rất nhiều, nước mắt hòa theo mưa. Mưa vẫn không ngừng trút xuống, đôi vai gầy của em run lên bần bật trong làn nước lạnh buốt. Thế rồi, đột nhiên em ngẩng đầu nhìn lên Đức Mẹ. Tôi nghe tiếng em thì thào quyện trong tiếng gió rả rích:
- Xin thương con và thương luôn cả phần khác biệt của con… Nếu Chúa muốn, con xin chấp nhận, chỉ xin giúp con đủ mạnh mẽ để chiến thắng được mình.
* * *
Buổi chiều cuối cùng chúng tôi lưu lại ngôi làng, tôi cùng em tản bộ trên triền đồi. Trời tạnh ráo, có chút nắng ấm áp xuyên qua làn sương mỏng phủ quanh đồi. Từ đây nhìn về phía núi xa, chúng tôi thấy dấu vết của mặt trời đang nấp trong cụm mây dày đặc, dù vậy, cũng đủ làm người ta thấy ấm lòng.
- Ba mẹ em thì sao?- Tôi hỏi em một câu lơ lửng.
- Em sẽ nói với họ sự thật. Có lẽ sẽ khá khó khăn, nhưng thà đau đớn đối diện với sự thật còn hơn cứ bắt họ hi vọng hoài ở một sự dối trá. Em nghĩ vậy…
- Ừm... Chúa sẽ giúp em mà.
Nói rồi hai tay tôi khẽ đan vào nhau, vân vê đầy bối rối. Tôi nhìn em, hồi hộp cất tiếng:
- An này… Mình là người sống với niềm tin vào Chúa. Có những giới hạn… mà mình không được phép vượt qua…
Em quay về phía tôi:
- Em hiểu mà chị… Có những giới hạn mà mình phải trân trọng vì chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần, có đúng không chị?
Tôi mỉm cười gật đầu. Thật may là em đã hiểu điều đó.
- Hồi nãy lúc lần hạt trước đài Đức Mẹ, chị có biết em đã nói với Mẹ điều gì không?
Tôi nhướng mắt nhìn em, im lặng. Em tiếp tục:
- Mẹ ơi! Con là người đồng tính nhưng trên hết con là con của Mẹ, vậy nên, Mẹ phải thương con và thương hơn những người khác!
Tôi bật cười:
- Câu này nghe quen quen.
Thế rồi cả hai cùng cười.
Trong ánh hoàng hôn đó, dẫu dưới màn sương mờ, tôi vẫn thấy em thật rạng rỡ như mặt trời sau mưa. Bỗng đâu đó vọng lại tiếng ai ca: “Chúa không lầm khi Ngài dựng nên con…”
* * *
Tôi đã luôn tin rằng: Chúa thật chẳng hề bất công khi dựng nên những sa mạc mênh mông rung rợn, vì Ngài đã đặt vào đó những ốc đảo xinh tươi. Điều quan trọng là sa mạc đã chẳng hề rên rỉ tại sao lại biến nó thành nơi khô cằn sỏi đá, mà nó đã thi hành trọn vẹn sứ mạng của mình là mang lấy nắng cháy khắc nghiệt và ôm ấp cả những ốc đảo xanh tươi. Sa mạc đã ca tụng Chúa bằng chính những điều ấy. Vấn đề còn lại là người lữ hành liệu có nhận ra được điều kì diệu đó hay không mà thôi…
Phanxica Nguyễn Thị Kim Thi (Đà Nẵng)
Post a Comment