Một ngày khác mọi ngày
Không phải ngày nào thức dậy, ta cũng có một ngày giống nhau đợi ta trước mặt. Như những người đang ở tuổi đi làm, có một thời khóa biểu nhất định từ thứ hai đến thứ sáu. Sáng dậy mấy giờ phải ra khỏi giường, nằm uốn éo như con mèo ngái ngủ được mấy phút, vệ sinh, ăn sáng hay không ăn sáng; uống ngay một ly cà phê pha lấy, hay dậy sớm hơn nửa tiếng pha bình trà nhâm nhi một chung nhỏ, rồi mới ra khỏi nhà. Người trẻ hơn có thể hấp tấp sửa soạn, chạy vù xuống nhà xe, lái đến Starbucks, mua một ly, vừa uống vừa lái xe đến sở. Công việc ở sở năm ngày như nhau hay mỗi ngày một khác nhau, cũng vẫn là việc sở. Sáng đi chiều về, thế thôi.
Người đã tuổi hưu trí, mấy giờ ra khỏi nhà đi tập thể dục, đến Gym hay hội cao niên, giờ nào ngồi vào ghế trước máy điện tử, đọc báo, viết thư. Hay chẳng cần giờ giấc nào; ăn, ngủ, thức tùy theo nhu cầu thân thể đòi hỏi, thúc giục. Nửa đêm thức dậy, đọc mấy trang sách, uống ly sữa ấm, rồi lại vào giường. Cứ thế ngày qua, ngày qua, tháng qua, rồi năm qua, ta tưởng như chẳng có gì thay đổi. Một ngày như mọi ngày.
Những người sống ở vùng Tây Bắc Mỹ, nếu buổi sáng dậy thấy hai bàn chân hơi lành lạnh, nhìn ra ngoài cửa sổ thấy những chùm lá bắt đầu ửng vàng, biết ngay là mùa thu đang đến. Thế là có một khoảng thời gian hơn hai tháng thức, ngủ với thu. Trong đầu hình dung ra những bức tranh toàn mầu vàng, cam, đỏ; những bức tranh có từng đàn cá Hồi (Salmon) bụng đầy trứng đang rủ nhau từ biển trở về suối (creek) để sanh đẻ. Rồi đàn cá nòng nọc đó, được nuôi cho lớn hơn một chút, đánh dấu trên mình, thả ra biển, sang năm chúng lại thành cá mẹ, quay về. Mùa thu với cá Hồi là lễ hội “Về Nguồn”, là mùa phục sinh của loài cá này.
Người Tây Bắc còn tuổi đi làm (cuối tuần thế nào cũng phải bỏ ra một vài giờ) hay người ở tuổi hưu trí, đều hân hoan đi dưới mưa thu, dưới nắng mật ong, đi dưới những cơn gió bất chợt kéo đến trận mưa lá đỏ, rồi những hạt mưa lãng mạn cứ lộp độp trên nóc dù, như tiếng gõ cửa của người thân quen. Buổi sáng thức dậy, khăn áo thật ấm, xỏ chân vào giầy đã nghe tim đập nồng nàn theo hơi thu thở. Mở cửa ra để hưởng ân huệ của đất trời. Nhìn qua bên kia hồ, những cây phong vàng úa, pha nâu, pha đỏ chen chúc với thông xanh như một bức gấm thất thể được ai đó tung ra phủ kín cả ngọn đồi. Đi bộ trong mùa thu, hai tay giấu túi áo, ngước mắt nhìn đám khói sương mơ hồ vắt ngang mỏm núi như tấm khăn san mỏng trên cổ, đang phất phơ theo cơn gió nhẹ, khẽ khẽ đọc một câu thơ mùa thu của Tản Đà, không còn gì hạnh phúc hơn nữa:
Trận gió thu phong rụng lá hồng
Lá bay tường bắc lá sang đông
Hồng bay mấy lá năm hồ hết
Thơ thẩn kìa ai vẫn đứng trông.
Rồi lá thu rụng kín mặt đường như những dòng sông nhỏ mầu vàng pha sắc đỏ len lỏi vào thành phố, những cây bắt đầu trơ lá, giơ những cánh tay khẳng khiu lên cao như muốn với tới bầu trời xám đục. Mùa đông đang đến từng bước một. Buổi sáng ra khỏi giường, chén trà bắt buộc thành một thói quen đầu tiên. Khói nhẹ nhàng bốc lên ngang mặt một mùi hương mộc mạc, làm mờ đôi mắt nhưng vô cùng quyến rũ. Chiếc tách nhỏ thân ái ôm lọt trong hai lòng bàn tay, vừa uống vừa nghe thời gian hình như đang chăng trong gan ruột mình bằng một sợi chỉ rất mơ hồ. Ra khỏi nhà phải có thêm khăn quàng ấm, có thêm găng cho mười ngón tay gầy, giầy cao cổ đế bằng cho bước đi vững chắc. Mùa đông trên cao của bầu trời, mùa đông dưới thấp của đời người đi song song với nhau, núi trước mặt tuyết bắt đầu phủ, tóc trên đầu có sợi điểm sương. Cứ thế, ngày mưa nhỏ ra khỏi nhà, ngày mưa to đốt lò sưởi, rót một ly rượu nho vơi vơi, đọc một bài thơ Đường, chữ quên, chữ nhớ, của mấy ông thi sĩ Trung Hoa; hoặc một câu thơ của tác giả nào ở tận nước Ba Tư xa lắc xa lơ, nhớ lơ mơ trong đầu. Nhớ thơ, không nhớ rõ tên tác giả, nhưng chắc thơ hay.
Ai nói một ngày như mọi ngày được nhỉ ?
Có một buổi sáng của thứ ba hay thứ năm, mùa hè thì phải , ngày mưa hay nắng không nhớ rõ, vừa lái xe qua khúc quành của con dốc xuống phố, đang lơ mơ với một câu lục bát điên điên của Bùi Giáng:
Anh về từ cuối nguyệt hoa
Nhìn em như mộng mị xa xa dần
Em đi sương bóng vô ngần
Nhìn anh như ngó một lần người điên.
Bỗng nghe một tiếng “rầm”, người dội về phía sau, bật lại phía trước, không mạnh đến nỗi ngực đập vào tay lái, nhưng cũng đủ chao đi, hoảng vía. Xe mình bị ai đó tông vào? Không, chính mình lạc tay lái tông vào cái cột điên thoại ở bên đường, đầu xe dúm một góc. Gọi ai bây giờ, có cần làm biên bản không?
Thất thần đến mấy ngày hôm sau, không dám lái xe ra đường. Khi bắt đầu lái xe lại, nhìn thấy cột đèn, hay cột điện thoại có ngay cái cảm tưởng sắp tông vào. Lúc nào cũng mơ hồ như sắp sửa nghe một tiếng rầm. Cái ám ảnh “thơ và tiếng rầm” này ở với mình lâu lắm.
Ai nói một ngày như mọi ngày được nhỉ?
Có đêm vừa vào giường, thiêm thiếp ngủ, nghe ai nói sáng mai đổi giờ, sớm hơn một tiếng. Như vậy có nghĩa là xuân đã về. Buổi sáng thức dậy, nhìn qua cửa sổ cái cành cây gầy như cánh tay gầy kia bỗng phủ kín những mầm xanh biếc rất bé. Chỉ cần một hai cơn nắng ấm áp lóe lên, những mầm bé xíu đó sẽ nở ra thành chùm lá xanh ngọc, trong vắt, tinh khiết đến rùng mình. Rồi những cánh hoa đào, hoa mận, hoa mai mong manh từ từ nở ra cho ta biết bao hình ảnh đẹp. Người Nhật ví hoa anh đào mầu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp thanh cao của tâm hồn, mầu hồng là tình yêu của người phụ nữ, nhưng hoa mận đỏ được dành cho vẻ đẹp thân thể, sức khỏe và tình dục của nàng.
Hoa xuân tung những đám mây hồng, mây trắng trước cửa, trong vườn mỗi nhà, công viên, sân trường, phố thị, cho ta cái cảm tưởng đời sống mình được chúc phúc bởi trời. Cái âm hưởng “Vang vang trời vào xuân” chưa thưởng thức hết, bỗng một buổi trưa mưa xuân lác đác, tiếng điện thoại reo. Một người bạn báo tin người bạn khác vừa khám phá ra bị ung thư, người bạn khác nữa vừa qua đời. Những cánh hoa tự nhiên lã chã rơi xuống thành những giọt lệ mầu xám giữa bầu trời mùa xuân.
Từ đó cứ mỗi lần xuân về, hoa nở, nghe tiếng reo của đường giây điện thoại, tim lại đập thấp thỏm trong bộ ngực gầy.
Ai nói, một ngày như mọi ngày được nhỉ?
Hoặc có một ngày, không rõ tháng, không rõ mùa, một ngày không biết nắng hay mưa, ta ngồi trước màn ảnh nhỏ, nhận được những bức hình của thủa rất xa xưa. Hình ảnh của Mùa Hè Đỏ Lửa, Mậu Thân, của An Lộc, Mỹ Lai, của 30 tháng 4, của ngày 9-11, của sóng thần Tsunami, của bão miền Trung, của mưa lũ Hà Nội, của Thương Phế Binh, của Nghĩa Trang Quân Đội… như những cuốn phim được chiếu lại nhiều lần. Giữa tắt máy và mở máy thêm bao nhiêu điều khác biệt: tin Hoàng Sa, Trường Sa mất, tin gái Việt chết ở Đại Hàn, trẻ em Việt bán đi ở Cam Bốt. Linh Mục bị tù, Thượng tọa bị bắt... Chưa hết đâu, ai đó còn gửi cho những bài viết làm đau lòng nhau, những bài viết của người cùng một phía, cùng yêu thương tôn trọng một mầu cờ, đọc lên lặng người đi vì xấu hổ, những bài viết làm ngỡ ngàng, hoang mang, đến nỗi đôi khi không muốn là chính mình nữa. Lá cờ vá trong hình của nhiếp ảnh gia Nguyễn Ngọc Hạnh hình như chỉ tuột một đường may, lá cờ quốc gia ở hải ngoại bị giành giật quá, mỗi người nắm trên tay một mảnh, theo chính nghĩa của riêng mình, nên không ai chịu buông ra, làm sao chắp, vá lại bây giờ? Một ngày như thế, làm nhức nhối thịt da, làm ngơ ngáo hồn trí.
Ai nói, một ngày như mọi ngày được nhỉ?
Ước chi được là một chiếc lá thu, một cánh hoa xuân, một giọt mưa mùa hạ, một cơn gió mùa đông; mong manh, bình thản, sống hết mình trong mỗi khoảnh khắc hiện diện với đời bằng bất cứ công việc tầm thường nào Thượng Đế trao cho.
Mặc dù không ngày nào giống nhau cả.
Trần Mộng Tú
Nguồn: http://www.dunglac.info/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=124&ia=6053
Post a Comment